Giới thiệu
TỔNG QUAN VỀ TRƯỜNG TIỂU HỌC NAM ĐỒNG
1. Vị trí địa lý
Đồng Sơn là một xã nằm phía nam huyện
Nam Trực, phía bắc và phía đông giáp xã Nam Dương, xã Nam Tiến của huyện Nam
Trực, phía nam giáp xã Trực Thuận của huyện Trực Ninh, phía tây giáp xã Nghĩa
Đồng của huyện Nghĩa Hưng. Đồng Sơn có diện tích khoảng 14 000 ha, dân số gần 17
000 người. Nghề nghiệp chủ yếu của nhân dân trên địa bàn xã là làm nông nghiệp.
Ngoài ra, người dân địa phương có nghề làm phở. Khoảng ½ số hộ gia đình có
người đi bán hàng phở trên khắp các địa phương trong toàn quốc. Đời sống kinh
tế của nhân dân Đồng Sơn không đồng đều, bình quân thu nhập của người dân thuộc
mức bình quân chung của huyện.
Đồng Sơn là một xã ghép nên có 3 vùng
miền rõ rệt: Nam Đồng, Nam Thành, Nam Thượng. Hệ thống giáo dục của xã gồm 7
trường học, trong đó có 3 trường mầm non, 3 trường tiểu học và 1 trường trung
học cơ sở. Trường tiểu học Nam
Đồng là một trường thuộc miền Nam
Đồng của xã Đồng Sơn.
2. Lịch sử hình thành trường
Nam Đồng ngày nay gồm 3 thôn Tây Lạc,
Thượng Đồng, Đông Lạc. Lịch sử phát triển và truyền thống hiếu học trọng thầy
của địa danh. Nam Đồng xuất phát từ mảnh đất – địa danh hơn 1000 năm tuổi Tây
Lạc. Văn phả làng Tây Lạc đã ghi rõ Thầy Nguyễn Minh Triết quê ở làng Bái Thần,
huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương từ nhỏ đã thông minh được làng phong là thần
đồng. Năm Canh Tân, đời vua Lê Hiển Tông năm thứ tư (1500), Thầy Nguyễn Minh
Triết đỗ tú tài. Thầy đã được dân làng Tây Lạc mời về làng mở trường dạy học.
Nhiều gia đình đã mời thầy về nhà nuôi để thầy dạy chồng, dạy con. Từ giàu tới
nghèo, gia đình nào cũng cố gắng cho con đi học. Nhiều cụ sáu, bảy mươi tuổi
vẫn trau dồi kinh sử thi phú. Tộc phả của các dòng họ đều ghi tên các cụ đỗ ở
các khoa thi Hương, thi Hội, thi Đình do triều đình mở. Mơ ước mũ cao, áo dài,
võng anh đi trước, võng nàng theo sau không còn chỉ là nguyện vọng của các đấng
mày râu mà còn là nguyện vọng tha thiết của thiếu nữ làng Tây Lạc thời bấy giờ.
Thầy Nguyễn Minh Triết yêu mến mảnh đất, con người Tây Lạc nên đã đem hết tâm
trí, nghị lực xây dựng Tây Lạc cho đến khi không còn sức cống hiến nữa thầy mới
trở về quê dưỡng lão và an nghỉ tại đó. Nhớ ơn thầy, dân làng Tây Lạc đã tôn
thầy là thành hoàng làng và xây dựng đền thờ thầy.
Truyền thống hiếu học - trọng thầy
của người dân Tây Lạc ngày càng được hun đúc và bồi đắp. Tinh thần hiếu học đó
đã lan tỏa trong người dân Tây Lạc nói riêng và Nam Đồng nói chung. Thống kê thời
Nho học, Nam Đồng có 1 cụ tiến sĩ Phó bảng, 24 cử nhân, 100 cụ nhất, nhị
trường, 146 cụ qua các kì thi Hương, thi Hội, thi Đình. Đến thời Quốc ngữ, thực
hiện lời dạy của Bác Hồ chống giặc dốt, người dân Nam Đồng đã mở nhiều lớp bình dân
học vụ. Ngày đi làm, đêm đốt đèn chai đi học, người biết chữ dạy người không
biết chữ. Nhà sư cũng trở thành thầy giáo như nhà sư Thích Quảng Tuyên. Năm
1952, tiền thân của trường tiểu học Nam Đồng ngày nay được thành lập.
Thuở ban đầu thành lập, trường chỉ có 4 lớp học cấp tiểu học, học tại đình làng
thôn Tây Lạc, Đông Lạc, Thượng Đồng và nhà dân. Năm 1959, đã xây dựng được hệ
thống trường lớp tập trung ở hai thôn Tây Lạc và Thượng Đồng. Ngôi trường mới
xây dựng chỉ có hai phòng mái ngói còn lại là tường đất mái tranh. Khi đó, nhà
trường đã có các lớp học từ lớp vỡ lòng đến lớp 8 và có tên gọi là trường phổ
thông cơ sở Nam Đồng. Quy mô của trường phổ thông cơ sở Nam Đồng ngày càng lớn
mạnh. Năm 1995, UBND huyện Nam Ninh (nay là huyện Nam Trực) đã có quyết định
tách trường phổ thông cơ sở Nam Đồng thành hai trường tiểu học và trung học cơ
sở Nam Đồng. Khi chia tách, trường tiểu học Nam Đồng có 2 điểm trường, điểm
trường chính đóng tại thôn Thượng Đồng, điểm trường lẻ đóng tại thôn Tây Lạc.
3. Xây dựng trường học vững mạnh.
Đảng ủy, chính quyền và nhân dân địa phương luôn quan
tâm đến công tác giáo dục. Cùng với nhân dân trong xã, người dân Nam Đồng đã
đóng góp hàng trăm tấn thóc xây dựng trường học. Các dòng họ thi đua nhau làm
công tác khuyến học, khuyến tài. Tính đến năm 2015, Nam Đồng đã có 11 dòng họ nhận bức
trướng “Dòng họ khuyến học -khuyến tài”
của UBND huyện trao tặng. Người dân Nam Đồng mặc dù đời sống kinh tế
còn gặp nhiều khó khăn nhưng đều có nguyện vọng thiết tha cho con em mình được
học hành đến nơi, đến chốn. Thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục Đảng và
Nhà Nước, người dân Nam
Đồng lại đem hết trí tuệ , sức lực cùng với nhà trường chăm lo, dạy dỗ con em
mình.
Trải qua hơn
nửa thế kỷ xây dựng và trưởng thành, trường tiểu học Nam Đồng đã có nhiều đổi mới và
thành tích rất đáng ghi nhận. Tháng 7/1999, trường tiểu học Nam Đồng vinh
dự được đón bằng công nhận trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I. Cơ sở vật chất
của nhà trường ngày càng đầy đủ và khang
trang. Năm học 2009 - 2010, nhà trường đã đạt tỷ lệ 100% phòng học kiên cố, các
phòng chức năng và phòng làm việc cũng được cải tạo và xây dựng thêm nhằm đảm
bảo tốt tiêu chuẩn về cơ sở vật chất của trường đạt chuẩn quốc gia mức độ II. Đặc
biệt, thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, trường tiểu học Nam Đồng đã được
quy hoạch về một điểm trường. Đây là điều kiện rất thuận lợi giúp nhà trường
triển khai đồng bộ và hiệu quả các hoạt động giáo dục. Phát huy tốt vai trò của
trường đạt chuẩn quốc gia, trong những năm qua, chất lượng giảng dạy và giáo
dục của nhà trường có những bước tiến vững chắc. Hàng năm, nhà trường có 70% trở
lên đội viên thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh và nhi đồng Hồ Chí Minh đạt danh
hiệu "Cháu ngoan Bác Hồ". Tỉ lệ HS 11 tuổi hoàn thành chương trình
tiểu học, tỉ lệ HS lên lớp hàng năm đạt từ 99% - 100%. Đặc biệt, năm học nào
nhà trường cũng có học sinh tham dự và đạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi cấp
huyện, cấp tỉnh. Từ năm học 1999 - 2000 đến nay, trường liên tục đạt danh hiệu
"Tập thể lao động tiên tiến" và "Tập thể lao động xuất
sắc".
Với quyết tâm
cao và sự phấn đấu nỗ lực, năm học 2012 - 2013, nhà trường đã được công nhận
đạt Chuẩn quốc gia mức độ II, đạt Chuẩn xanh – sạch – đẹp – an toàn, thư viện
của nhà trường được công nhận đạt Chuẩn thư viện trường phổ thông. Nhà trường
đã được Sở Giáo dục và Đào tạo Nam
Định kiểm đinh chất lượng giáo dục và được công nhận đạt cấp độ 3.
Những thành tựu của giáo dục Nam Đồng có
đóng góp không nhỏ của các thầy cô giáo công tác trên mảnh đất này. Đã có biết
bao tấm gương thầy cô giáo tận tụy, hết lòng vì học sinh thân yêu. Họ luôn được
nhân dân, phụ huynh và học sinh tin yêu, kính trọng.
4. Định hướng chiến lược phát triển của trường đến 2020
* Tầm nhìn
Là một
ngôi trường thân thiện, uy tín, chất lượng, nơi phụ huynh, học sinh tin
cậy. Một chiếc nôi rèn luyện để giáo viên và học sinh luôn có khát vọng
vươn lên. Học sinh
sẽ trở thành những cá nhân có tư duy độc lập, tham gia tích cực vào học tập,
biết giải quyết vấn đề, hướng tới năng lực sử dụng công nghệ cao
* Sứ mạng:
Tạo dựng được
môi trường sư phạm lành mạnh, có chất lượng giáo dục cao. Giáo dục học sinh có
năng lực tự học, sáng tạo, có kỹ năng sống thích ứng với xã hội để mỗi học sinh
đều có cơ hội phát triển và tự định hướng vươn lên trong tương lai.
* Hệ thống giá trị cơ bản của nhà
trường.
- Tính trung
thực
- Tình đoàn
kết
- Sự
hợp tác
- Tinh thần
trách nhiệm
- Lòng
nhân ái
5. Cán bộ quản lý qua các thời kì
Stt
|
Họ và tên
|
Quê quán
|
Thời gian công tác
|
Ghi chú
|
1
|
Nguyễn Chí Hi ếu
|
Ninh Bình
|
1952 - 1953
|
Nguyên trưởng khoa Triết Đại học Tổng
hợp ĐH Quốc gia Hà Nội. Nghỉ hưu tại Hà Nội
|
2
|
Phạm Duy Ninh
|
Đông Lạc - Đồng Sơn -
|
1954 -1958
|
Đã mất
|
3
|
Dương Viết Sâm
|
TP Nam Định - tỉnh
|
1959 – 1961
|
Nguyên Hiệu trưởng trường trung cấp
nghề
|
4
|
Đới Trọng Kế
|
Thượng Đồng - Đồng Sơn –
|
1962 – 1964
|
Đã mất
|
5
|
Hà Văn Nghệ
|
1965 – 1967
|
Nghỉ hưu tại Nam Hải
|
|
6
|
Nguyễn Quốc Minh
|
Hành Quần – Xã Bình Minh -
|
1968 – 1976
|
Nghỉ hưu tại Bình Minh
|
7
|
Vũ Hữu Bằng
|
1977 - 1978
|
Nghỉ hưu tại Nam Lợi
|
|
8
|
Vũ Ngọc Giao
|
1979 - 1981
|
Nghỉ hưu tại Nam Lợi
|
|
9
|
Đỗ Mạnh Thái
|
1982 – 1983
|
Nghỉ hưu tại Nam Tiến
|
|
10
|
Phạm Văn Tiệp
|
Trực Hưng –
|
1984 – 1995
|
Nguyên hiệu trưởng trường THCS Nam Đồng
- Nghỉ hưu tại Đồng Sơn
|
11
|
Nguyễn Thị Hồng
|
1996 -2004
|
Nghỉ hưu tại Đồng Sơn
|
|
12
|
Lê Thị Hạnh
|
2004 đến nay
|
6.
Danh sách cán bộ, giáo viên,
nhân viên năm học 2015-2016
TT
|
Họ tên
|
Năm sinh
|
Chức vụ
|
Trình độ đào tạo
|
Chuyên ngành
|
Ghi chú
|
|
1
|
Lê Thị Hạnh
|
1973
|
Hiệu trưởng
|
ĐH
|
GVTH
|
||
2
|
Đoàn Thị Tuất
|
1970
|
Phó hiệu trưởng
|
CĐ
|
GVTH
|
||
3
|
Cồ Thị Hương Thủy
|
1976
|
GV - Chủ tịch CĐ – TT tổ 1
|
CĐ
|
GVTH
|
||
4
|
Nguyễn Thị Kim Dung
|
1963
|
GV
|
CĐ
|
GVTH
|
||
5
|
Ngô Thị Châm
|
1961
|
GV
|
CĐ
|
GVTH
|
||
6
|
Lê Thị Xuân
|
1971
|
GV – Tổ phó tổ 2+3
|
CĐ
|
GVTH
|
||
7
|
Cồ Thị Tuyết
|
1990
|
GV
|
CĐ
|
GVTH
|
HĐ
|
|
8
|
Vũ Thị Hà
|
1977
|
GV – Tổ trưởng tổ 2+3
|
CĐ
|
GVTH
|
||
9
|
Vũ Thị Thắm
|
1968
|
GV
|
CĐ
|
GVTH
|
||
10
|
Phạm Thị Hương Sen
|
1990
|
GV – Tổ trưởng tổ 4+5
|
ĐH
|
GVTH
|
||
11
|
Lê Thị Cẩm Vân
|
1990
|
GV – Tổ phó tổ 4+5
|
ĐH
|
GVTH
|
||
12
|
Đỗ Thị Thủy
|
1991
|
GV
|
CĐ
|
GVTH
|
||
13
|
Hoàng Thị Cúc
|
1986
|
GV
|
TC
|
Mĩ thuật
|
||
14
|
Đoàn Văn Tuyên
|
1988
|
GV
|
TC
|
Âm nhạc
|
||
15
|
Trần Xuân Thành
|
1986
|
GV
|
CĐ
|
Thể dục
|
||
16
|
Phạm Thị Liên
|
1986
|
GV
|
ĐH
|
Tiếng Anh
|
||
17
|
Vũ Thị Hương
|
1988
|
GV
|
ĐH
|
Tiếng Anh
|
HĐ
|
|
18
|
Ngô Thị Hà
|
1980
|
GV
|
CĐ
|
Tin học
|
||
19
|
Triệu Quốc Huy
|
1970
|
Kế toán
|
TC
|
Kế toán
|
||
20
|
Nguyễn Thị Hiên
|
1989
|
Y tế
|
TC
|
Điều dưỡng
|
||
21
|
Phạm Thị Trang
|
1990
|
NV VP
|
ĐH
|
Kế toán
|
HĐ
|
|
||||
|